Sư Phạm Giáo Lý

SƯ PHẠM GIÁO LÝ

– Tổng hợp và biên soạn: HIền Lâm
Nguồn: https://tinmungmoingay.com/su-pham-giao-ly-can-ban/

Dàn bài:

Phần I.  SƯ PHẠM GIÁO LÝ

Bài 1.  Khái niệm về giáo lýSư Phạm Giáo

Bài 2.  Mẫu người giáo lý viên

Bài 3.  Chúa Giêsu, GLV gương mẫu

Bài 4.  Nguyên tắc dạy giáo lý

Phần II.  NHỮNG PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM

Bài 5.  Tổng quan về phương pháp sư phạm

Bài 6. Phương pháp sử dụng các hình thức văn chương

Bài 7.  Phương pháp kể chuyện

Bài 8.  Phương pháp đặt câu hỏi

Bài 9.  Phương pháp cầu nguyện

Bài 10. Phương pháp sinh hoạt giáo lý

Bài 11. Phương pháp năng động nhóm

Phần III.  DẠY GIÁO LÝ THEO ĐỐI TƯỢNG

Bài 12. Dạy giáo lý cho tuổi Ấu nhi

Bài 13. Dạy giáo lý cho tuổi Thiếu nhi

Bài 14. Dạy giáo lý cho tuổi Thiếu niên

Bài 15. Dạy giáo lý cho tuổi Thanh niên.

Phần IV. PHỤ TRƯƠNG

Bài 16. Những điều cần tránh khi dạy giáo lý

Bài 17. Cách giữ trật tự trong lớp học.

Phần I.  SƯ PHẠM GIÁO LÝ

Sư phạm giáo lý là những nguyên tắc, phương thế để dạy giáo lý, truyền đạt đức tin cách dễ dàng và có hiệu quả.

Bài 1. KHÁI NIỆM VỀ GIÁ O LÝ

  1. ĐỊNH NGHĨA

Giáo lý là lý thuyết, lý lẽ của một đạo, một tôn giáo được ghi trong sách gọi là sách Giáo lý.

– Việc trình bày chân lý đức tin mộc cách đơn giản, cụ thể, sống động, giúp người học hiểu và sống đức tin gọi là dạy Giáo lý.

– Giáo lý làm vang dội Lời Chúa trong lòng người nghe nhằm giúp họ hoán cải.

– Giáo lý là một phần của thần học mục vụ, là một môn học như bao môn học khác.

  1. BẢN CHẤT CỦA GIÁO LÝ

– Giáo lý là tác động chính yếu của Giáo hội trong sứ mạng truyền giáo.

– Giáo lý là một môn Trí dục : dùng ngôn ngữ, hình ảnh… làm cho hiểu.

– Giáo lý là môn Đức dục : đưa giá trị đạo đức vào tâm hồn con người, để họ hiểu, cảm nghiệm và quyết tâm hành động.

– Giáo lý là sự hướng dẫn đến gặp gỡ và thông hiệp trong đức tin: Chúa nói, con người tiếp nhận, đưa đến gặp gỡ và hiệp thông với Chúa và Giáo hội.

III. VỊ TRÍ CỦA GIÁO LÝ

Giáo lý Là một trong những hình thức thi hành nhiệm vụ giáo huấn của Giáo Hội :

– Truyền giảng Phúc âm cho người chưa tin (tiền huấn giáo).

– Dạy giáo lý : đào sâu đức tin trong các lớp giáo lý (huấn giáo).

– Giảng thuyết : bài giảng trong Thánh lễ (homélie).

– Thần học : trình bày chân lý đức tin cách hệ thống và khoa học.

  1. MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO LÝ
  2. Giáo dục đức tin :

– Đào tạo trưởng thành đức tin, giúp con người đứng vững trong mọi hoàn cảnh.

– Đào tạo toàn diện về nhân bản quy hướng về Chúa Kitô.

– Đào tạo Kitô hữu sẵn sàng dấn thân phục vụ Giáo hội và xã hội.

  1. Giúp con người tiếp xúc và hiệp thông thân mật với Chúa Kitô, vì chỉ có mình Người mới đưa chúng ta đến tình yêu Chúa Cha trong Thánh Thần và làm cho chúng ta thông dự vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
  2. Nhằm chuẩn bị lãnh nhận các Bí tích qua 3 giai đoạn :

– Thông truyền kiến thức tôn giáo (hiểu biết).

– Hoán cải bản thân (luân lý).

– Đưa vào đời sống mới trong Chúa Kitô (bí tích).

  1. NỘI DUNG CỦA GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

Gồm có 4 phần :

– Tuyên xưng đức tin (Tín lý)

– Các Bí tích đức tin (Phụng vụ – Bí tích)

– Đời sống đức tin (Luân lý)

– Kinh nguyện trong đời sống đức tin (kinh Lạy Cha).

Bốn phần này nối kết với nhau làm thành mầu nhiệm Kitô giáo.

Khi dạy giáo lý, chúng ta trình bày Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa, trung tâm của Tin Mừng này là Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, đấng luôn hiện hiện và hoạt động nơi trần thế qua Thánh Thần và Giáo hội.

  1. NGUỒN MẠCH CỦA GIÁO LÝ

Giáo lý bắt nguồn từ kho tàng Lời Chúa bao gồm :

– Thánh Kinh là nguồn mạch chính của giáo lý. Đó là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Thánh Kinh thuật lại sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại để mang lại ơn cứu độ cho con người. Nội dung của lịch sử này chính là nội dung củ a giáo lý.

– Thánh Truyền là một phần mạc khải, được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các lời giáo huấn của các giáo phụ.

– Phụng vụ : làm cho bài giáo lý trở nên cụ thể, sống động, đưa lý thuyết trở thành sự cảm nghiệm nơi tâm hồn. Phụng vụ giúp chúng ta hiểu biết các mầu nhiệm Kitô giáo và gợi lên lòng tin – cậy – mến.

– Giáo huấn và đời sống của Giáo hội. Giáo huấn của Giáo hoàng, các Công đồng, các Giám mục và đời sống chứng tá đức tin của toàn thể dân Chúa cũng là nguồn sống động và mang tính thời sự của giáo lý.

Bài 2. MẪU NGƯỜI GIÁO LÝ VIÊN

  1. GIÁO LÝ VIÊN LÀ AI?
  2. Định nghĩa

GLV là những người chia sẻ sứ mạng rao giảng Tin mừng của Giáo hội, hầu mở mang Nước Chúa qua việc thi hành sứ mạng truyền giáo.

  1. Đặc điểm người GLV

– GLV là người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi.

– GLV là người hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu.

– GLV là người sống theo Lời Chúa dạy.

– GLV là người có khả năng chia sẻ niềm tin cho người khác.

– GLV là người gắn bó với Hội thánh và được Hội thánh sai đi.

– Dạy giáo lý là thi hành tác vụ ngôn sứ.

– Mọi giáo dân có khả năng đều được mời gọi làm GLV.

– Các bạn trẻ là những người tiên phong trong việc giảng dạy giáo lý cho các em thiếu nhi qua vai trò huynh, đội trưởng và GLV trong hoạt động mục vụ giáo lý.

  1. VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GLV
  2. Vai trò của GLV

– Công khai rao truyền sứ điệp Kitô giáo.

– Đồng hành với những người dự tòng trong việc khai mở đức tin.

– Hiện diện và làm chứng để thăng tiến con người.

– Nỗ lực hội nhập văn hoá và đối thoại.

  1. Tầm quan trọng của GLV

– Góp phần loan truyền đức tin và mở mang Hội thánh.

– Cộng tác trong việc xây dựng Hội thánh.

– Thực hiện công tác giáo dục đức tin.

III. NHỮNG ĐỨC TÍNH CẦN THIẾT CỦA GLV

– Có đức tin sống động và đời sống thiêng liêng sâu sắc.

– Nắm vững căn bản giáo lý.

– Hiểu biết tâm lý và sư phạm theo từng giới và độ tuổi.

– Yêu mến học viên.

Bài 3. CHÚA GIÊSU – GIÁO LÝ VIÊN GƯƠNG MẪU

  1. PHƯƠNG PHÁP DÙNG HÌNH ẢNH

– Chúa dạy bằng cách đưa ra những hình ảnh, những dụ ngôn qua các kiểu nói cụ thể và dễ hiểu.

Ví dụ:

+ Dụ ngôn người gieo giống (Mt 13,4-9).

+ Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,30-37).

– Chúa giảng bằng gương đời sống và hành động.

Ví dụ:

+ Dạy khiêm nhường và phục vụ: Chúa rửa chân cho các  môn đệ (Ga 13,4-5).

+ Dạy cầu nguyện: Chúa cầu nguyện suốt đêm (Lc 11,1-2).

  1. PHƯƠNG PHÁP TRỰC GIÁC

– Chúa dùng kinh nghiệm sống và ngôn ngữ thời đại.

Ví dụ:

+ Xây nhà trên cát, mưa đổ (Mt 7,24-27).

+ Cây tốt sinh trái tốt (Lc 6,43).

– Chúa dùng biến cố trong cuộc sống để răn dạy.

Ví dụ:

+ Những người Galilê bị Philatô giết (Lc 13,1).

+ 18 người bị tháp Silôê đè chết (Lc 13,4).

III. PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỤ

– Tuỳ theo đối tượng, tâm lý và trình độ.

Ví dụ:

+ Dân chúng : Bài giảng trên núi (Mt 5, 1-12).

+ Tông đồ : Cây nho thật (Ga 15).

+ Luật sĩ, biệt phái : Luật rửa tay (Mc 7).

+ Phụ nữ : Thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp (Ga 4,1-30).

  1. PHƯƠNG PHÁP ĐẶT CÂU HỎI

– Đặt câu hỏi để đánh động suy nghĩ.

Ví dụ:

+ Được lời lãi cả và thế gian nào ích chi? (Mc 8,36).

+ Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? (Lc 11,11).

– Dùng hình ảnh đối nghịch để gây ấn tượng mạnh.

Ví dụ:

+ Ai giữ mạng thì sẽ mất. Ai mất mạng vì Ta thì sẽ được lại (Mc 8,35).

+ Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho (Lc 11,9).

– Dùng câu hỏi ngược để chất vấn.

Ví dụ:

+ Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? (Lc 2,49).

+ Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? (Mc 3,33).

  1. ĐÚC KẾT THÀNH CHÂM NGÔN

– Sau bài giảng, Chúa Giêsu thường đúc kết thành những câu châm ngôn ngắn gọn, dễ nhớ.

Ví dụ:

+ Về lòng khiêm tốn: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống (Mt 23,12).

+ Về ơn bền đỗ: Kẻ được gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít (Mt 20,16).

  1. PHƯƠNG PHÁP MỜI GỌI THỰC HÀNH

– Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu luôn mời gọi thực hành.

Ví dụ:

+ Bữa Tiệc ly: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (1Cr 11,24).

+ Người phụ nữ ngoại tình: Chị cứ về đi và  từ nay đừng phạm tội nữa (Ga 8,11).

VII. DÙNG KINH THÁNH ĐỂ CHỨNG MINH.

Ví dụ:

+ Hai môn đệ làng Emmau (Lc 24, 25-27).

+ Hãy phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây lại (Ga 2,19).

Bài 4. NGUYÊN TẮC DẠY GIÁO LÝ

  1. NGUYÊN TẮC DẠY GIÁO LÝ [1]
  2. Trước khi dạy:

– Cầu nguyện: suy gẫm và thấm nhuần Lời Chúa để thông truyền.

– Soạn bài:

+ Hiểu đề tài và ý chính của bài.

+ Viết giáo án ngắn gọn, đầy đủ.

+ Viết lời nguyện, bài học thực hành, quyết tâm sống.

+ Tìm tài liệu, dụng cụ giảng dạy.

– Ngay trước giờ dạy:

+ Đến sớm vài phút.

+ Đón tiếp, gặp gỡ.

+ Xem phòng ốc, trang trí.

  1. Trong khi dạy
  2. Nội dung bài giáo lý

– Trình bày sứ điệp: hình thức câu chuyện.

– Giải thích: dựa vào câu chuyện giải thích và đặt câu hỏi, lập bảng tóm tắt, sau cùng lồng vào ý tưởng bài giáo lý.

– Thực hành: đưa ra những chân lý áp dụng trong cuộc sống. GLV nên gợi ý cho học viên bằng cách đưa ra:

+ Những quyết định cần làm.

+ Những điều thực hành phải giữ.

+ Thực hành bằng cách cầu nguyện sau đó.

  1. Phương thức giáo lý chiều sâu

– Suy nghĩ: khởi đi từ Lời Chúa hay kinh nghiệm sống, giáo lý thúc đẩy suy nghĩ, khám phá và nhận định.

– Đối thoại: đối thoại giúp suy nghĩ phong phú thêm, tạo bầu khí tin tưởng, chân thành.

– Cầu nguyện: từ học hiểu dẫn đến việc gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện.

– Hành động: giáo lý tác động lên cách sống, hoán cải lòng người để từ đó có khả năng dấn thân phục vụ.

  1. Sau khi dạy

– GLV và học viên tiếp tục sống sứ điệp Tin Mừng trong môi trường hiện tại.

– GLV phải nêu gương đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích.

– GLV kiểm tra bài cũ, chuẩn bị bài mới, tìm kiếm tài liệu.

  1. NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT KHI DẠY GIÁO LÝ
  2. Lưu ý tới học viên hơn sách vở

– Sách giáo lý chỉ có tính cách chỉ dẫn, nên cần có người giảng giải.

– GLV đưa học viên vào đời sống đức tin, giúp họ sống tốt.

  1. Mục đích quan trọng của mỗi bài giáo lý

– GLV xác định ý chính của mỗi bài.

– Giáo lý giúp học viên áp dụng trong cuộc sống.

– GLV cần có kinh nghiệm bản thân chia sẻ để giáo lý ăn sâu vào tư tưởng của học viên.

  1. Sửa soạn tâm trí cho học viên

– Nhắc lại những gì học viên đã biết.

– Nhắc lại kiến thức có liên quan đến giáo điều.

– GLV cần gợi hứng thú cho học viên khi học giáo lý.

Phần II. CÁC PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM

Bài 5. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM

  1. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM
  2. Định nghĩa

Sư phạm giáo lý là những nguyên tắc, phương thế để dạy giáo lý, truyền đạt đức tin cách dễ dàng và có hiệu quả.

  1. Hình thức sư phạm

– Giảng dạy: GLV thông truyền kiến thức cho học viên. GLV nói bằng cách thuyết trình. Học viên lắng nghe và ghi nhận.

– Linh hoạt: tương quan giữa GLV và học viên. Hình thức này kết hợp việc đối thoại, chia sẻ, thảo luận. GLV và học viên cùng nói và cùng nghe.

– Thực tập: tương quan giữa học viên và kiến thức. GLV giúp học viên thực hành bằng cách thuyết trình. Áp dụng phương pháp sinh hoạt, trò chơi.

  1. PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM ỨNG DỤNG GIÁO LÝ
  2. Phương pháp quy nạp

– Định nghĩa: quy nạp là phương pháp khởi đầu  bằng cách nghiên cứu các trường hợp riêng biệt để rút ra kinh nghiệm và sau sùng đưa ra định luật chung.

– Quy nạp trong giáo lý :

+ Giới thiệu: đưa ra sự kiện hoặc câu chuyện làm khởi điểm.

Ví dụ: Dụ ngôn đứa con phung phá (Lc 15,11-32).

+ Giải thích: từ sự kiện, câu chuyện rút ra ý tưởng, bài học.

Ví dụ: Thiên Chúa là Cha nhân từ đối với tộ i nhâ n.

+  Áp dụng: đem ý tưởng, bài học vào đề tài giá o lý.

Ví dụ: Mọi người đều là tội nhân nên hãy trở về với Chúa.

– Đối tượng: học sinh cấp I: thích cụ thể, quan sát.

  1. Phương pháp diễn dịch

– Định nghĩa:

Diễn dịch là phương pháp đi từ định luật, ý niệm tổng quát đến từng trường hợp cá biệt, sau đó rút ra nhận định.

– Diễn dịch trong giáo lý

+ Giới thiệu: con người cần ăn để sống.

+ Thể xác: bồi dưỡng bằ ng thức ăn, nước uống để phát triển.

+ Áp dụng: linh hồn cũng cần bồi dưỡng bằng bí tích Thánh Thể.

– Đối tượng:

Học sinh cấp II, biết suy luận, trí khôn đang phát triển.

  1. Phương pháp giáo thụ

– Định nghĩa:

Phương pháp này mang hình thức thuyết minh. GLV soạn bài và trình bày. Học viên lắng nghe và ghi chép.

– Đối tượng:

Học sinh cấp III, dễ tiếp thu, đỡ tốn thời gian.

  1. Phương pháp trực giác

– Định nghĩa:

Phương pháp này căn cứ vào việc quan sát sự vật cụ thể qua giác quan rồi suy nghĩ, rút kinh nghiệm, công dụng và bài học.

Ví dụ: Nếm ớt biết cay, sờ lửa biết nóng. Từ nay không nếm ớt cũng chẳng sờ lửa.

– Đối tượng:

Tuổi ấu nhi, mẫu giáo thích quan sát, sờ mó và hiểu lời sau khi thấy và sờ mó.

  1. Phương pháp hoạt động

– Định nghĩa:

Phương pháp này làm nổi bật phần trí dục bằng cách mở mang kiến thức, gợi hứng thú, óc sáng tạo, rèn luyện tập quán.

– Phân loại:

+ Đối thoại: đặt câu hỏi, câu đố, gợi ý, giúp học viên động não.

Ví dụ: đối thoại để giải thích Lời Chúa hay bài giáo lý, giúp học viên suy nghĩ và phát biểu.

+ Sinh hoạt: vận dụng cơ năng hoạt động như trí tưởng tượng, óc thẩm mỹ, sự khéo léo, giọng hát, giúp học viên hiểu sâu, nhớ lâu.

Ví dụ: Thay đổi bầu khí vui tươi, khuyến khích tinh thần cầu tiến, giúp nhớ bài lâu hơn.

– Đối tượng:

Mọi lứa tuổi và mọi trình độ.

Bài 6. PHƯƠNG PHÁP

SỬ DỤNG CÁC HÌNH THỨC VĂN CHƯƠNG

Các tác giả Thánh Kinh đã chọn cho mình những hình thức văn chương riêng để diễn đạt Lời Thiên Chúa. Dưới đây là một số hình thức gặp thấy trong Thánh Kinh:

  1. HÌNH THỨC VĂN CHƯƠNG

a, Dụ ngôn.

Dụ ngôn (Parable) là một câu chuyện giả tạo nhưng có thể xảy ra trong thực tế.

Người ta dùng dụ ngôn để chuyển đạt ý niệm về một thực tại cao siêu xuyên qua việc so sánh với một thực tại thường nhật.

Ví dụ: Đức Giêsu nói: “Nước Trời giống như một kho báu chôn trong thửa ruộng…”

Câu này gồm 3 yếu tố:

  1. Hình ảnh quen thuộc thường nhật: Kho tàng chôn trong thửa ruộng.
  2. Thực tại siêu hình: Nước Trời.
  3. So sánh giữa hai thực tại trên với nhau.

Nhờ sự so sánh này mà người ta có ý niệm về thực tại siêu nhiên chưa thấy được.

Tuy nhiên, khi giải nghĩa dụ ngôn không nên quá chú tâm đến từng chi tiết tỷ mỷ và xem các chi tiết đều có ý nghĩa, nhưng chỉ cần nhìn vào những điều dụ ngôn muốn ám chỉ là đủ.

b, Ngụ ngôn.

Ngụ ngôn (Fable) là câu chuyện giả tạo không thể xảy ra trong thực tế, vì gán cho các sinh vật, thực vật, sông nước… những đặc điểm của con người, nhằm diễn tả một sự việc của con người mà tác giả kể ngụ ngôn nhắm tới. Ngụ ngôn chứa đựng những bài học luân lý được diễn tả qua các chi tiết của câu chuyện.

Thánh Kinh có sử dụng hình thức văn chương này, nhưng không nhiều.

Ví dụ: “…Bụi gai trả lời cây cối: “Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng…” (Tl 9,8-15).

Xem thêm 2V 14, 9-10.

Tân Ước không sử dụng hình thức văn chương ngụ ngôn.

c, Ám tỷ (ám chỉ).

Phép ám tỷ (Metaphor) là một kiểu nói bóng bảy, dùng một từ hay một câu nếu hiểu theo nghĩa đen thì ám chỉ điều này, nhưng qua đó lại ám chỉ về điều khác, nhờ có sự tương đồng nào đó giữa hai sự vật.

Ví dụ ví Chúa Giêsu là Chiên Con (hiền lành, hy tế), Phêrô là Đá (vững chắc), Hêrôđê là Con Cáo (bù nhìn, lén lút trong đêm tối)…

Đặc điểm của phép ám tỷ là nói lên một thực tại vừa không thực lại vừa thực. Ví dụ: “Thầy là cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5). Không thực là Chúa Giêsu và các môn đệ không phải là cây nho cành nho thật, nhưng điều thực là Chúa Giêsu là nguồn sự sống thần linh cho những ai kết hợp với Người.

d, Ẩn dụ.

Ẩn dụ (Allegory) là câu chuyện không có thực, được dựng lên với mục đích diễn tả một chân lý nào đó cách thi vị và gần gũi. Chẳng hạn truyện Nguyên Tổ ăn trái cấm “giữa vườn” và bị phạt nặng. Truyện này nhằm mục đích nói lên ngay từ đầu con người đã vi phạm lệnh Chúa và lãnh lấy hậu quả của sự bất tuân, chứ không phải có chuyện chỉ ăn một trái cây mà bị phạt nặng đến thế.

e, Cường điệu (ngoa ngữ).

Cường điệu (Hyberbole) là kiểu nói phóng đại quá với sự thật nhằm muốn nhấn mạnh điều muốn nói. Chẳng hạn khi nói: Đánh chết nó đi, có nghĩa là không phải đánh chết mà là ngụ ý đánh cho thật đau.

Ví dụ khi nói về tầm mức lan rộng của giáo lý Đức Giêsu, Gioan viết: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế gian cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (x. Ga 21,25).

f, Mỹ từ.

Mỹ từ (Euchanism) là kiểu nói dùng các từ thanh lịch để nói tránh một sự việc tế nhị hoặc khó nói, hay không muốn nói thẳng ra.

Ví dụ: thay vì nói “chết” người ta dùng từ “an nghỉ” hoặc “ngủ”…

  1. TÌM HIỂU CÁC LOẠI NGHĨA

Thánh Kinh có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau, nên cần tìm hiểu các loại nghĩa được sử dụng trong Thánh Kinh mới có thể hiểu được tư tưởng chính của tác giả muốn nhắm tới.

Đi tìm ý nghĩa của Kinh Thánh là một tiến trình qua nhiều nguyên tắc: Tìm ý nghĩa thực của từ ngữ mà tác giả nhắm tới, đặt chúng vào trong sự liên tục của bản văn và tìm chủ đích của cả tác phẩm muốn nói với mục đích gì?

a, Các nguyên tắc.

Nguyên tắc 1: Tìm ý nghĩa thực mà tác giả nhắm tới. ví dụ: Khi nói “Nhớ chết đi được” có nghĩa là rất nhớ.

Nguyên tắc 2: Đặt vào mạch văn nếu không sẽ làm cho nội dung bị méo mó hoặc sai lệch. Ví dụ: “Hãy sám hối”. Nếu tách câu này ra thì giáo lý Chúa Giêsu cũng chỉ dừng lại ở mức Cựu Ước như các ngôn sứ, Gioan Tẩy Giả và ngay cả Đức Phật cũng nói thế. Nhưng đặt vào mạch văn: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” thì mới nói lên được nội dung đầy đủ của giáo lý Chúa Giêsu.

Nguyên tắc 3: Xét chủ đích của tác giả trong mỗi tác phẩm. Chẳng hạn mỗi Tin Mừng mang một sắc thái riêng: Matthêu viết cho Kitô hữu gốc Gio Thái thì cố gắng làm cho họ hiểu những gì tiên báo trong Cựu ước đã ứng nghiệm…

b, Nghĩa của từ ngữ (Literal sense).

Mỗi từ ngữ đều ám chỉ một thực tại nào đó, nghĩa là mỗi từ ngữ đều mang ý nghĩa và có thể hiểu theo hai cách:

– Nghĩa đen: Là điều mà từ ấy nói đến trực tiếp. Ví dụ khi nói “con cáo” tức là người ta nghĩ ngay đến loài động vật rình rập vào ban đêm và được người ta gọi là con cáo…

– Nghĩa bóng: Là ý nghĩa của từ ngữ nói về sự vật này nhưng lại ám chỉ một sự vật khác cách bóng bảy. Như khi Đức Giêsu nói: “Hãy đi nói với con cáo ấy thế này…”. Con cáo được nói ở đây ám chỉ vua Hêrôđê.

c, Nghĩa biểu tượng (Typical sense).

Là ý nghĩa rút ra từ một thực tại trong Cựu Ước, rồi áp dụng vào Tân Ước. Vì Tân Ước thực hiện và hoàn tất những hình bóng Cựu Ước, nên chỉ những thực tại được đề cập trong Tân Ước mới có mối tương quan ý nghĩa biểu tượng mà thôi.

Hai thực tại trong nghĩa biểu tượng, có thể là nhân vật, sự vật, biến cố:

Nhân vật: Melkiseđe là hình bóng Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm…

Sự vật: Manna là hình bóng Thánh Thể…

Biến cố (hành động): Vượt qua Biển Đỏ là hình bóng Bí Tích Rửa Tội…

d, Nghĩa hoàn hảo (Fuller sense)

Nghĩa hoàn hảo hay đầy đủ là ý nghĩa rút ra từ một từ ngữ được ám chỉ về thực tại này, nhưng lại được áp dụng cho một thực tại khác.

Ví dụ: “Các ngươi không được làm gãy một cái xương nào của nó”(Xh 12,46) Câu này được dùng cho con chiên vượt qua, nhưng lại áp dụng cho thực tại là Đức Giêsu không bị đánh giập ống chân (x. Ga 19,36).

Nghĩa hoàn hảo khác với nghĩa biểu tượng ở chỗ, nghĩa biểu tương là rút từ thực tại này áp dụng vào thực tại khác, trong khi nghĩa hoàn hảo là cùng một từ ngữ được áp dụng cho trường hợp này để áp dụng cho trường hợp khác.

Đôi khi trong một vài trường hợp một câu vừa có nghĩa biểu tượng, vừa có nghĩa hoàn hảo. Ví dụ: “Như Môisê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy”. Nghĩa biểu tượng là hình ảnh con rắn đồng với Đức Giêsu, nhưng sự “treo lên” (nghĩa hoàn hảo) mới diễn tả hết sự Cứu Độ của Đức Giêsu.

e, Nghĩa phóng tác (Accommodated).

Là ý nghĩa được căn cứ vào nghĩa đen của một chữ, một câu hay một đoạn Kinh Thánh, rồi suy rộng ra và áp dụng vào nhiều lãnh vực khác nhau. Nghĩa này thường được các nhà giảng thuyết, nhất là các nhà đạo đức sử dụng nhiều. Tuy Hội Thánh không cấm, nhưng không thật sự khuyến khích.

Nghĩa phóng tác tự nó đóng góp quan trọng trong việc suy tư, nhưng dễ bị méo mó lung lạc hoặc vượt quá thực tế sự thật khi không chú ý bám chặt vào chủ đề chính mà phóng đại ý phụ để tạo sức hấp dẫn… rồi tưởng tượng và bịa đặt thêm. Ví dụ trong “Ngắm Thương Khó” người ta tưởng tượng ra chuyện Đức Giêsu bị bắt trên đường dẫn đến nhà Kha-na: “Chúng đi trên cầu, thòng dây bắt Đức Giêsu lội dưới sông lạnh lẽo giá rét…”. Trong khi quãng đường này không hề có cầu cống sông ngòi gì cả.

III. NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ, CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN VĂN VÀ BẢN DỊCH.

GLV phải chịu khó nghiên cứu trước các từ ngử được nói tới trong bài học, đặc biệt các thành ngữ, các chữ nước ngoài 9thông điệp, ký hiệu Thánh Kinh…). Cách tốt nhất là tra từ điển để tìm hiểu từ ngữ, rồi đem đối chiếu áp dụng trong tình huống mà bài học hôm đó.

Ví dụ:

– Mặc khải: trầm mặc, mở ra; Mạc khải: bức màn, cất lên

– IHS : Iesus Hominum Salvator…

– So sánh các bản dịch Thánh Kinh.

– Đối chiếu các thông điệp liên quan (tông huấn Lời Chúa, Hiến chế mặc khải).

  1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ.

Vì mặc khải xảy ra trong lịch sử, cho nên muốn hiểu Thánh Kinh, chúng ta cần “tìm ý nghĩa mà … các thánh sử muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong thời đại và hoàn cảnh văn hóa của họ, qua những lối văn được dùng trong thời đó” (Dei Verbum 11). Để giúp đạt được mục đích này, Hội Thánh khuyến khích chúng ta dùng phương pháp Phân Tích (Phê Bình) Lịch Sử, vì phương pháp này nghiên cứu các văn bản Thánh Kinh như các tài liệu lịch sử và tìm cách hiểu bản văn trong phạm vi lịch sử. Tuy nhiên phương pháp này không phải là phương pháp duy nhất, cần phải được sử dụng một cách cẩn trọng theo truyền thống Đức Tin của Hội Thánh.

Bài 7.  PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN

  1. LÝ DO KỂ CHUYỆN

– Theo gương Chúa Giêsu, khi giảng dạy Người thường bắt đầu kể chuyện. Đây là phương pháp quy nạp.

– Câu chuyện làm đời sống phong phú hơn.

– Câu chuyện giúp biết mình là ai, như thế nào.

– Câu chuyện gây hứng khởi, đáp ứng nhu cầu thích nghe chuyện.

  1. PHÂN LOẠI CHUYỆN KỂ

– Chuyện Thánh Kinh: Abraham, Nạn hồng thuỷ, …

– Chuyện lịch sử Giáo hội: Giáo hội thời các tông đồ, …

– Hạnh các thánh: thánh Têrêsa, Phaolô, …

– Chuyện dụ ngôn, cổ tích: thỏ và rùa, Tấm Cám, …

– Chuyện đời thường hay thời sự: lòng nhân ái, sự hy sinh…

III. NGUYÊN TẮC CHỌN CHUYỆN KỂ

– Lên chương trình cẩn thận.

– Chuyện hợp tâm lý, lứa tuổi.

– Chuẩn bị chuyện cho cẩn thận, thứ tự trước sau.

– Đừng “lên lớp”.

  1. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
  2. Chuyện kể hay

– Có nội dung hay, tình tiết hấp dẫn.

– Cảm hứng từ đầu, kết thúc cách linh hoạt.

– Có bài học để áp dụng.

  1. Người kể chuyện

– Thích câu chuyện mình muốn kể.

– Nắm vững kết cấu việc kể chuyện.

– Chuẩn bị kể chuyện cách chu đáo.

– Thay đổi giọng nói cho phù hợp tình tiết, nhân vật, hoàn cảnh,

  1. Kết cấu việc kể chuyện

– Dẫn nhập: giới thiệu, khởi đầu.

– Thắt nút: có vấn đề, mâu thuẫn, xung đột.

– Phát triển: đẩy mâu thuẫn lên cao bằng những tình tiết hấp dẫn.

– Cao trào: mâu thuẫn đạt đỉnh cao, gây thách đố giải quyết.

– Mở nút: kết thúc, liên hệ cuộc sống.

  1. Luyện tập
  2. Chuẩn bị chuyện

– Chọn chuyện thích hợp với người nghe.

– Đọc chuyện nhiều lần, thông thạo lời nói.

– Nhớ những điểm gay cấn.

– Thực hành trước gương.

– Giọng nói phù hợp từng nhân vật.

– Ghi dàn bài, nhớ những điểm then chốt.

  1. Khi kể chuyện

– Tập trung vào câu chuyện và đối tượng nghe.

– Lời nói của nhân vật trong chuyện rõ ràng.

– Kể chuyện vui vẻ, hào hứng, có thể đóng vai từng nhân vật.

– Tới điểm gay cấn cần nhấn mạnh nhưng không đặt câu hỏi, phải kết mau lẹ.

– Cần sự kết hợp của thính giả.

  1. Bí quyết thành công

– Người kể chuyện có chuẩn bị.

– Người kể chuyện tự tin và bình tĩnh.

– Tập trung vào cử toạ.

– Biết cách hít thở để tăng cường dưỡng khí.

Bài 8. PHƯƠNG PHÁP ĐẶT CÂU HỎI

  1. LỢI ÍCH CỦA VIỆC ĐẶT CÂU HỎI
  2. Về mặt tâm lý, giáo dục

– Bắt đầu hiểu một chút về vấn đề.

– Cá nhân cởi mở, có tinh thần cầu tiến, trao đổi, lắng nghe.

– Xác định bản lĩnh, có ý nghĩ riêng để đối chiếu.

– Phương pháp tìm hiểu tâm tính và kiểm tra kiến thức.

  1. Việc loan báo Tin mừng

– Chúa Giêsu giảng dạy theo lời thỉnh cầu của dân chúng.

Ví dụ:

+ Trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?

+ Tôi phải làm gì để được sống đời đời?

– Chúa Giêsu cũng đặt câu hỏi để đưa người ta đến chân lý.

Ví dụ:

+ Các con bảo Thầy là ai?

+ Anh có tin Con Người không?

  1. CÁC DẠNG CÂU HỎI

– Câu hỏi sự kiện: bảo đảm kiến thức chính xác về những sự kiện quan trọng.

Ví dụ: Bí tích là gì? Có mấy bí tích?

– Câu hỏi về ý nghĩa: từ câu chuyện, định nghĩa, ta đặt câu hỏi “Điều này có ý nghĩa gì?” để nhằm biết dư luận hoặc thăm dò ý kiến của vấn đề.

– Câu hỏi về giá trị: gợi lên suy nghĩ cụ thể của từng cá nhân.

Ví dụ: Bạn có năng xưng tội và rước lễ không?

– Câu hỏi cùng đích cuộc đời: câu hỏi này liên quan đến cùng đích và huyền nhiệm sự sống con người.

Ví dụ: Đâu là hạnh phúc đích thực của đời bạn?

III. CÁCH ĐẶT CÂU HỎI CHO HỌC VIÊN

– Tránh nêu câu hỏi “đóng”, vì câu trả lời  chỉ là “có” hoặc “không”.

– Đặt câu hỏi chung cho cả lớp trước, sau đó đặt câu hỏi cá nhân.

– Nên đặt câu hỏi ở nhiều dạng khác nhau.

– Đặt câu hỏi có ý nghĩa để học viên trả lời cách sâu sắc.

  1. CÁCH GIẢI ĐÁP DẠNG CÂU HỎI

– Câu hỏi về giá trị: loại câu hỏi này do thiếu kiến thức, không biết hoặc không biết đủ. Để trả lời ta cần có kiến thức và biết cách thông truyền kiến thức.

Ví dụ: Tại sao Hội thánh buộc tham dự thánh lễ Chúa nhật?

– Câu hỏi gợi lên mầu nhiệm: câu hỏi liên quan đến đức tin nên không thể minh chứng trực tiếp bằng kiến thức, lý luận vì con người không đủ khả năng. GLV cần uốn nắn những thành kiến, ngộ nhận. Hãy chia sẻ kinh nghiệm sống trong cuộc đời và trong lịch sử Hội thánh.

Ví dụ: Thiên Chúa tốt lành, tại sao có sự dữ?

– Câu hỏi lạc đề : GLV không nên trả lời, nếu thấy học viên đùa giỡn, bằng ngược lại sẽ trả lời sau, nhưng cho biết là câu hỏi đã lạc đề. GLV cũng có thể hỏi lại: “Em định trả lời thế nào?”. Tuy nhiên, GLV cũng cần kiểm điểm cách dạy của  mình có thích hợp với trình độ và sở thích của học viên không?

  1. THÁI ĐỘ CỦA GLV TRƯỚC NHỮNG CÂU HỎI

– Tiếp nhận câu hỏi với thiện cảm.

+ Tiếp nhận, lắng nghe câu hỏi của học viên.

+ Suy nghĩ câu hỏi rồi trả lời, không nên vội vã.

-Không trả lời toàn bộ những câu hỏi do học viên đặt ra.

+ Chỉ trả lời những câu hỏi liên quan đến đa số học viên và những câu hỏi nhằm tăng kiến thức hiểu biết cho học viên.

+ GLV cần hạn chế câu hỏi để tránh lạc đề.

+ Câu hỏi ngoài vấn đề nhưng thấy cần thì GLV có thể trả lời ngay hoặc vào lần khác, cũng có thể trả lời riêng.

+ Tập cho học viên đặt câu hỏi liên quan đến vấn đề.

– Giải thích thêm câu hỏi: GLV phân tích, sắp xếp câu hỏi cho gọn, rõ ràng.

Ví dụ: GLV gợi ý: Em định nói gì… Ý của em có phải …. Em có thể cho ví dụ cụ thể xem …. Phải chăng em muốn nói như thế này …?

Bài 9. PHƯƠNG PHÁP CẦU NGUYỆN

  1. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN

– Thái độ của một thọ tạo: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và ban cho quyền thống trị muôn loài. Con người phải khơi dậy tâm tình ca ngợi, tôn thờ, cầu nguyện trong vui tươi.

– Thái độ của một người con: nhờ Chúa Giêsu, ta trở nên con Thiên Chúa. Tâm tình của người con là yêu mến, kính trọng và vâng phục, phó thác vào Cha bằng những lời cầu nguyện.

– Thái độ của một tội nhân: tin vào Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, nhân từ, khao khát ơn cứu rỗi, cầu nguyện xin ơn tha thứ và sống tinh thần sám hối.

  1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ CẦU NGUYỆN

– Đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa: cầu nguyện là gặp gỡ và nói chuyện với Chúa nên cần ý thức, tâp trung vào Chúa.

– Nói với Thiên Chúa: ngoài việc đọc kinh, khi cầu nguyện ta cần nói những điều riêng tư với Chúa để chúc tụng, cảm tạ, xin lỗi, xin ơn. Học viên phải chuẩn bị trước khi cầu nguyện.

– Khung cảnh buổi cầu nguyện: nơi tôn nghiêm, kính cẩn, thinh lặng và trầm tĩnh trong một thái độ hoàn toàn tự do tin tưởng.

– Lắng nghe tiếng Chúa nói: khi cầu nguyện cần lắng đọng tâm hồn để nghe tiếng Chúa nói. Đó là tiếng nói lương tâm thôi thúc, động viên ta làm những điều tốt.

– Biến đổi tâm hồn: tin tưởng mình được Chúa lắng nghe nên cần hoán cải, biến đổi tâm hồn để thực thi ý Chúa, bình an trong tâm hồn sau khi cầu nguyện.

III. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN TRONG GIÁO LÝ

– Lời nguyện tắt: lập đi lập lại tên “Giêsu” hoặc “Giêsu Maria Giuse, con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn, xin thương xót chúng con”.

– Lặp lại lời nguyện: GLV đọc lớn từng câu ngắn. Học viên lặp lại lớn tiếng hoặc đọc thầm.

Ví dụ:

+ Lạy Chúa Giêsu (học viên lặp lại)

+ Chúa đang ở giữa chúng con (học viên lặp lại)

– Gợi lên một tâm tình: đưa ra một đề tài, học viên tự cầu nguyện theo tâm tình ấy.

Ví dụ: Thiên Chúa yêu thương con người nên đã chịu chết trên thập giá vì tội chúng ta. Các em hãy cảm ơn Chúa ngay lúc này.

– Cầu nguyện theo kiểu đối đáp. Ví dụ:

+ Xướng:  Lạy Chúa Giêsu là thầy dạy chúng con.

+ Đáp: Xin cho chúng biết lắng nghe tiếng Chúa.

– Cầu nguyện theo kiểu chủ sự: GLV đọc lời nguyện chậm rãi.

Cuối lời nguyện tất cả học viên thưa “Amen”.

– Đọc kinh thường ngày: đọc chậm, rõ ràng.

Ví dụ: Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh, hoặc đọc Thánh vịnh,

– Hát: tâm tình, rõ ràng, nhẹ nhàng.

  1. CÁCH SOẠN MỘT LỜI NGUYỆN

– Nêu danh xưng: lạy Chúa,  lạy Chúa Giêsu, lạy Mẹ Maria, …

– Trình bày lý do: tại sao xin ơn, cần dựa vào Lời Chúa.

– Diễn tả nội dung: muốn xin ơn gì?

– Chủ đích xin ơn: lợi ích cho bản thân, gia đình, xã hội, Giáo hội, hoặc làm vinh danh Chúa.

– Kết thúc: trông cậy Chúa sẽ ban ơn.

Lời nguyện mẫu:

Lạy Chúa (nêu danh xưng), Chúa không muốn kẻ có tội phải hư mất, nhưng muốn họ hối cải để được sống  (lý do). Xin cho những ai đang xa lìa Chúa, được nghe tiếng Chúa kêu mời mà trở lại trong mùa Chay thánh này (nội dung), để họ được hưởng nhờ ơn cứu rỗi của Chúa (chủ đích 1), và làm sáng tỏ lòng nhân hậu, tha thứ của Chúa (chủ đích 2). Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con (kết). Amen.

Bài 10. PHƯƠNG PHÁP SINH HOẠT GIÁO LÝ

  1. SINH HOẠT DO MỘT NGƯỜI LÀM THAY CHO CẢ LỚP

– Học viên đọc đoạn Thánh Kinh và tóm tắt ý chính.

– Học viên tìm vàii câu Thánh Kinh phù hợp, viết lên bảng.

– Học viên thuật chuyện cho cả lớp nghe.

– Học viên trình bày nhữ ng điều tâm đắc nhất trong bài giáo lý.

– Mời môt học viên tóm tắt bài giáo lý, cho lớp bổ túc.

– Mời một học viên đứng lên cầu nguyện thay cho lớp.

– Hỏi một học viên cho biết bài học rú t ra từ bài giáo lý.

  1. SINH HOẠT THEO TỪNG NHÓM

– Mỗi nhóm thảo luận một ý chính trong bài giáo lý rồi trình bày.

– Mỗi nhóm soạn một lời nguyện về một chủ đến giáo lý.

– Mỗi nhóm vẽ hoặc cắt dán một bức tranh về chủ đề bài giáo lý.

– Mỗi nhóm chia vai diễn lại một câu chuyện hay một dụ ngôn.

– Mỗi nhóm soạn tóm tắt bài giáo lý vừa học, so sánh các nhóm.

– Mỗi nhóm trình bày một vấn đề trước lớp.

– Mỗi nhóm sưu tầm các tranh ảnh liên quan đến một vấn đề.

– Mỗi nhóm sưu tầm nhữ ng câu Thánh Kinh theo chủ đề.

III. SINH HOẠT CÁ NHÂN CHUNG CHO CẢ LỚP

– Xem một tấm hình (bản đồ, phong cảnh,…) hoặc nghe một bài thánh ca, cả lớp cùng hát về đề tài liên quan học hỏi.

– Tô mầu (hình vẽ sẵn), hoặc dán một hình ảnh, hoặc chú thích một câu ngắn gọn hợp với tấm hình.

– Vẽ sáng tác một chủ đề, đào sâu ý nghĩa chủ đề.

– Cho học viên vẽ phóng tác, thấy được sự hồn nhiên và ước mơ.

– Chú giải những hình vẽ được trình bày để thấy cảm nghĩ thực của các em.

– Đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ và trả lời.

– Ghi câu hỏi về nhà trả lời, lần sau nộp.

– Gợi mở một số ý kiến, sau đó cho học viên bổ túc.

– Cho học viên chép ghi nhận cảm tưởng và ý kiến trên giấy, sau đó GLV đọc cho cả lớp nghe rồi nhận định, góp ý.

– GLV thuật truyện cho cả lớp cùng nghe, rồi đặt câu hỏi.

– Cho học viên bổ túc một câu Thánh Kinh, soạn hoặc viết tiếp một lời nguyện:

Ví dụ :

+  Ngôi Lời ……………. và cư ngụ giữa chúng ta.

+ Thiên Chúa ………. con người theo hình ảnh Thiên Chúa.

+ …………….., Thiên Chúa nghỉ ngơi.

– Sắp xếp lại câu Kinh thánh cho đúng.

Ví dụ: Ai muốn theo tôi / vác thập giá / hằng ngày / mình mà theo / phải từ bỏ chính mình” (Lc 9,23).

– Vẽ bản đồ .

Ví dụ: thành Giêrusalem, khu phố của bạn.

– Câu đố Thánh Kinh.

Ví dụ:

+ Ai là vị tông đồ dân ngoại (Phaolô).

+ Sự sống lại của Chúa Giêsu và ông Lazarô khác nhau như thế nào?

+ Hãy kể tên các tước hiệu của Đức Mẹ.

– Các trò chơi khác về giáo lý.

Ví dụ:

+ Hai bên kể tên các thánh nam, thánh nữ.

+ Đối đáp các con số hoặc các dụ ngôn trong Kinh thánh.

Bài 11. PHƯƠNG PHÁP NĂNG ĐỘNG NHÓM

Đây là những phương thế kỹ thuật tân thời giúp gia tăng hiệu năng của mỗi thành viên trong nhóm. Phương pháp này đặt nền tảng trên lòng kính trọng con người và sự chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên của nhóm.

Mục đích :

– Tạo điều kiện cho mọi người tích cực tham gia học hỏi.

– Tạo tương quan giữa mọi người trong nhóm.

– Tạo sự chuyển biến sâu xa nơi tâm hồn mỗi người.

Ích lợi :

– Tập nghệ thuật lắng nghe.

– Tập phát biểu

– Thực sự gặp gỡ nhau.

  1. HỌP NHÓM
  2. Cách thức

GLV giới thiệu đề tài giáo lý, nêu lên vấn đề dưới hình thức đặt câu hỏi thảo luận. GLV chia lớp ra thành những nhóm nhỏ để suy nghĩ, thảo luận, tóm kết. Các nhóm họp chung lại báo cáo kết quả thảo luận của nhòm mình. Cuối cùng, GLV bổ túc và đưa ra bài học chung cho vấn đề thảo luận.

  1. Kết quả cuộc họp tuỳ thuộc 2 yếu tố :

– Sự đóng góp tích cực và thành thực của mỗi thành viên trong nhóm.

– Sự hướng dẫn khéo léo và đúc kết chính xác của GLV.

  1. Diễn tiến

BƯỚC 1 : Giới thiệu đề tài và đặt câu hỏi

GLV khởi đầu bài giáo lý bằng một đoạn Thánh Kinh, hoặc một sự kiện, một trường hợp. Từ đó nêu lên một thắc mắc, một vấn đề để suy nghĩ, thảo luận, tìm ra giải đáp. Mục đích của phần này là gây ấn tượng.

Muốn gây ấn tượng, gây phản ứng, GLV cần đặt câu hỏi dưới nhiều hình thức mớ i lạ, sắc bén, đôi khi bi thảm. Có thể đặt vấn đề bằng lời, chữ viết, tranh vẽ, trang báo … nhưng tất cả đều phải gợi ý đến nội dung tôn giáo và đưa đến một giải đáp.

BƯỚC 2. Họp nhóm nhỏ

Chia lớp thành từng nhóm nhỏ để mọi người có thể phát biểu, trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra.

Việc trao đổi nhóm còn nhằm tiếp thu các ý  kiến và chuẩn bị cho phần thảo luận chung.

Mọi người trong nhóm cần tích cực và cởi mở phát biểu ý kiến, cần biết trân trọng lắng nghe người khác mặc dù có vài điểm mình không đồng ý. Đây không chưa phải  lúc đối chiếu quan điểm.

Mỗi nhóm chọn ra một  nhóm trưởng để điều động nhóm, một  thư ký để ghi lại những ý kiến phát biểu và tổng hợp để trình bày trong phần thả o luận chung.

BƯỚC 3. Họp chung

Tường trình. Thư ký mỗi nhóm sẽ trình bày cho cả lớp biết về kết quả trao đổi của nhóm mình. Việc tường trình cần theo 2 qui luật sau :

– Tường trình theo thứ tự : Tình hình chung của cuộc trao đổi.

– Những điểm đề cập tới.

– Các ý kiến phân làm mấy loại, tóm từng loại.

– Những điều nổi bật đáng lưu ý trong cuộc trao đổi.

Người tường trình sau : Không cần nhắc lại những điều nhóm trước đã trình bày.

– Nên theo thứ tự : nhóm tôi  đồng ý với các ý kiến này … Xin bổ túc thêm điểm này … Có quan niệm khác và ngược với điểm này …

Thảo luận chung. GLV nên ghi lại trên bảng theo từng loại những ý kiến thảo luận rộng rãi, những ý mơ hồ cần suy nghĩ thêm, những ý kiến còn khác biệt. Rồi mời tất cả lớp thảo luận.

– Cần đào sâu nỗ lực suy nghĩ, tìm hiểu của học viên.

– Xác định và chấp nhận những ý kiến đúng.

– Lưu ý những điều chưa ai để ý tới.

– Đúc kết tất cả thành công thức ngắn gọn.

BƯỚC 4. Đúc kết

Khi thảo luận xong, GLV tổng hợp các ý kiến  cách mạch lạc, đánh giá những ý kiến, làm nổi bật những ý kiến góp phần giải đáp, rồi cuối cùng tóm lược giải đáp, rút ra bài học bằng một câu ngắn gọn.

  1. HỘI THẢO

Có nhiều hình thức hội thảo, hình thức thông dụng và đơn giản là cuộc trao đổi của một nhóm hội thảo viên trước một cử toạ về những cảm nghĩ, quan điểm, kinh nghiệm bản thân về một vấn đề nào đó. Quan điểm này được đối chiếu với quan điểm của những người khác.

  1. Điều kiện

– Có nhiều quan điểm khác nhau về một vấn đề, nhưng tất cả phải hữu lý và có khả năng chấp nhận được.

– Các hội thảo viên là những người chủ trương và hành động theo quan điểm đó .

– Cử toạ có thể phát biểu cảm nghĩ của mình, và dựa vào các quan điểm trình bày để duyệt lại quan điểm của mình.

  1. Áp dụng vào giáo lý

Trong giáo lý, hội thảo là cơ hội đối chiếu các quan điểm sống đạo khác nhau, và là một phương thế loan báo Tin Mừng đích thực.

Tuy cùng chấp nhận một đức tin giống nhau, nhưng việc áp dụng Lời Chúa và sống đức tin trong những hoàn cảnh lại khác nhau, cho nên mọi người có sự lựa chọn và thái độ khác nhau, vì thế cần có sự đối chiếu quan điểm.

Nhờ đối chiếu các quan điểm khác nhau, mỗi người có thể duyệt lại các quan điể m của mình, xét xem có hợp lý và đứng vững không, từ đó, giúp họ sáng suốt và xác tín hơn về chọn lực của mình.

Hội thảo cũng là một dịp thuận lợi để mỗi người rèn luyện thái độ lắng nghe, hiểu nhau, chấp nhận sự khác biệt và tôn trọng lẫn nhau. Điều này giúp họ hiểu và sống Tin Mừng cách sâu sắc hơn.

  1. Diễn tiến

KHỞI ĐẦU

Cần chuẩn bị trước vài tuần cho các hội thảo viên được tuyển lựa hiểu cách thức và diễn tiến cuộc hội thảo, giải thích cho họ đại cương đề tài hội thảo. Mỗi hội thảo viên cần chú ý :

– Hiểu rõ đề tài và vấn đề đưa ra.

– Xác định quan điểm riêng của mình về vấn đề này.

– Tìm lý lẽ bênh vực, tìm bằng chứng biện hộ.

BỐ TRÍ PHÒNG HỘI THẢO

Số hội thảo viên vừa phải (khoảng 4-10 người) sao cho đủ đối thoại và có nhiều ý kiến khác nhau. Sắp xếp các hội thảo viên ngồi 2 bên hơi xéo để có thể nhìn thấy nhau. GLV làm hướng dẫn viên ngồi ở giữa đối diện với cử toạ.

GLV là người hướng dẫn, điều phối, tạo cơ hội cho mọi người phát biểu, giải thích thêm hoặc đưa ra bằ ng chứng, có thể hướng cuộc thảo luận về những điểm mới.

CHIA GIỜ TRONG CUỘC HỘI THẢO :

– Hướng dẫn viên trình bày vấn đề : 5’

– Thảo luận giữa các hội thảo viên : 30’

– Cử toạ đặt câu hỏi với hội thảo viên : 20’

– Hướng dẫn viên kết luận : 5’

PHẦN KẾT THÚC

GLV chú ý 2 điểm :

– Nhận định về mỗi lập trường đã được trình bày : giá trị và giới hạn.

– Làm nổi bật lý do biện minh và chân lý đức tin làm nền tảng cho lập trường.

Phần III. DẠY GIÁO LÝ THEO ĐỐI TƯỢNG[2]

Bài 12. DẠY GIÁO LÝ CHO TUỔI ẤU NHI

  1. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (4-7 TUỔI)
  2. Tư tưởng

– Tư tưởng gắn liền với tình cảm.

– Phân biệt được thực ảo.

– Hay thắc mắc, đặt câu hỏi: cái gì, tại sao?

– Sử dụng từ ngữ đơn sơ, cụ thể.

– Dựa vào đối tượng bên ngoài để suy nghĩ.

  1. Tình cảm

– Lệ thuộc và phát triển từ gia đình, cha mẹ, anh chị, bạn bè…

– Biểu lộ tình cảm qua cử chỉ, nét mặt: cười, khóc, nhăn…

– Tình cảm là nhu cầu cho trẻ lớn lên.

  1. Nhân cách

– Nhân cách bắt đầu phát triển.

– Lấy người lớn làm mẫu để phát triển nhân cách.

  1. Xã hội tính

– Có tương quan từ gia đình đến học đường.

– Tìm bạn để vui chơi.

– Thấy cần rời gia đình như đi học, đi chơi.

  1. Hành động

– Hành động theo tình cảm là biểu lộ nhân cách.

– Môi trường hoạt động giới hạn.

– Thích hoạt động chân tay: chạy nhảy, chơi, múa, vẽ, viết, …

  1. SỰ PHÁT TRIỂN LUÂN LÝ VÀ ĐỨC TIN
  2. Luân lý

– Ý thức luân lý gắn liền với ý thức cha mẹ.

– Căn bản là đời sống tình cảm.

– Nặng tình cảm: vâng lời vì yêu thương, làm để vui lòng.

– Lương tâm chớm nở: phân biệt tốt xấu theo thái độ của cha mẹ.

  1. Đức tin

– Chia sẻ và phụ thuộc theo đức tin của cha mẹ.

– Theo thời gian, trẻ dần dần ý thức Thiên Chúa là Đấng che chở, giữ gìn và làm cho trẻ lớn lên.

– Cảm thấy phải tin vào Chúa, nghe Chúa và theo Chúa.

– Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng trung gian.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO

– Huấn giáo khai tâm, chuẩn bị xưng tội, rước lễ.

– Rèn luyện cho trẻ thái độ tin, nghe và sống theo Chúa.

– Phát huy tâm tình thờ lạy, hoà hợp yêu thương mọi người.

– Giới thiệu cho trẻ biết về Chúa Giêsu: quê hương, cha mẹ, lời Chúa dạy, điều Chúa đòi hỏi, …

– Huấn luyện lương tâm Kitô giáo: giải thích lề luật Chúa cách đơn giản, sự hiện diện của Chúa qua lương tâm, tạo cơ hội tốt cho trẻ làm việc, …

– Trao cho trẻ một số kiến thức giáo lý căn bản: giá trị luân lý (ăn ngay ở lành, làm việc tốt), bí tích Thánh Thể, Bí tích Giải tội.

  1. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
  2. Phương pháp

– Sử dụng phương pháp quy nạp, trực giác, tiệm tiến, hoạt động.

  1. Sinh hoạt

– Vẽ, hát, cử điệu, đặt câu hỏi và trả lời.

– Vận dụng trí nhớ: thuộc lòng kinh và một số câu giáo lý cơ bản.

  1. Kỷ luật

– Sống và bắt chước gương tốt của người lớn.

  1. Cách trình bày vấn đề

– Dùng phương pháp giản dị đi từ sự kiện nghe, thấy trong cuộc sống, rồi nói tâm tình, đưa ra kinh nghiệm và dẫn đến chân lý.

Bài 13.  DẠY GIÁO LÝ CHO TUỔI THIẾU NHI

  1. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (8-12 TUỔI)
  2. Tư tưởng

– Tuổi hướng ngoại, bắt đầu suy luận.

– Tư tưởng đi liền với hành động.

– Tư tưởng dựa vào sự kiện khách quan.

– Sử dụng ngôn ngữ.

– Thủ đắc những tập quán (giúp lễ, giáo lý, ca đoàn).

  1. Tình cảm

– Tình cảm gắn liền với hành động cách bộc trực, hồn nhiên.

– Thích ganh đua, thích được khen.

– Nhạy cảm, vui buồn chốc lát.

  1. Nhân cách

– Phân biệt phái tính.

– Bắt đầu hình thành nhân cách cá biệt, và triển nở do người lớn.

– Tập làm người lớn.

  1. Xã hội tính

– Tuổi thích nghi và hội nhập vào sự vật và con người.

– Phát triển mạnh (lớp, đội, nhóm)

– Gắn liền cuộc sống.

– Dễ hợp tác, dễ ganh đua.

  1. Hành động

– Tuổi thực nghiệm, thích hoạt động tung tăng.

– Dồi dào sinh lực.

– Hành động có tính cách tự động, nhưng bất kể hậu quả.

  1. Ý THỨC LUÂN LÝ VÀ ĐỨC TIN
  2. Luân lý

– Căn bản là lý trí đang phát triển.

– Luân lý có tính cách thực hành cụ thể và xã hội.

– Luân lý là ý thức giữ luật lệ có tính cách bắt chước.

– Tìm lý do bào chữa để tự vệ.

  1. Đức tin

– Thiên Chúa là Đấng an bài trật tự, là Đấng lập luật và truyền lệnh.

– Thiên Chúa là Đấng có thể liên lạc qua lương tâm, lý trí.

– Đức Kitô là Đấng có quyền năng.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO

– Giáo lý chuẩn bị lãnh bí tích Thêm sức

– Lịch sử cứu độ được diễn tả bằng những sự kiện cụ thể và kỳ công của Thiên Chúa.

– Trình bày Chúa Kitô qua công trình cứu độ.

– Trình bày Chúa Thánh Thần qua sức mạnh Hội thánh.

– Giúp trẻ sống đời sống của Hội thánh và  phụng vụ qua sinh hoạt của giáo xứ.

– Cần gương sáng của gia đình, xứ đạo.

– Tập thói quen tốt, kiểm điểm mỗi ngày, tránh hình thức máy móc trong việc đạo đức.

  1. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
  2. Phương pháp

– Cụ thể: dựa vào sự kiện đưa tới chân lý.

– Gần gũi với đời sống.

– Quy về chân lý với một vài điểm chính.

  1. Sinh hoạt

– Vẽ, hát, đặt câu hỏi, sinh hoạt tập thể, trò chơi.

– Sưu tầm, chép sổ tay, cầu nguyện.

– Học thuộc lòng các câu giáo lý, Kinh thánh và câu đố.

  1. Kỷ luật

– Đi đôi với tình thương.

  1. Cách trình bày vấn đề

– Trình bày sự kiện phải mạnh lạc, đặt trong không gian, thời gian vì là tuổi tri giác.

Bài 14. DẠY GIÁO LÝ CHO TUỔI THIẾU NIÊN

  1. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (13–16 TUỔI)
  2. Tư tưởng

– Tuổi ước mơ: chủ quan, mơ ước lý tưởng đẹp, dễ xa rời thực tế.

– Kiến thức phong phú nhưng đầy mộng mơ.

– Ý thức giá trị tinh thần, tự do chớm nở, giằng co giữa: Trẻ – Lớn.

– Hay phê bình, lý trí xung khắc tình cảm, bướng bỉnh, khó hiểu.

  1. Tình cảm

– Tuổi dậy thì: đa cảm, mơ mộng, chú ý đến thân xác và sự sống.

– Tuổi bất ổn: từ tuổi trẻ bước vào người lớn, hay thay đổi.

– Nhạy cảm trước ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh, bạn bè.

  1. Nhân cách

– Tuổi giao thời, khó dạy vì xác định cái “tôi” chủ quan, khép kín.

– Tuổi thích thần tượng.

– Khao khát tự do, thích tỏ ra bản lĩnh.

  1. Xã hội tính

– Tìm cách đi vào bí ẩn của con người, khám phá giá trị văn hoá có tính chủ quan.

– Thích làm việc cá nhân.

– Hướng đến những giá trị tự do.

– Chọn lựa bạn bè, lập nhóm, lập băng.

  1. Hành động

– Muốn làm người lớn, hay bắt chước.

+ Nam thích biểu dương sức mạnh.

+ Nữ hướng về nội tâm, thích làm dáng.

– Hành động theo nhóm, thích kiểu hợp “gu”.

  1. Ý THỨC LUÂN LÝ VÀ ĐỨC TIN
  2. Luân lý

– Căn bản là ý thức về cái tôi, chủ quan trong suy nghĩ về giá trị.

– Thích bắt chước những mẫu người lý tưởng.

– Thắc mắc, phê phán, khước từ luật lệ áp  đặt bên ngoài, lưu tâm đến luật lương tâm.

– Luân lý tự phát, quảng đại, có trách nhiệm.

  1. Đức tin

– Chuyển biến từ đức tin xã hội đến đức tin chuyên biệt, có chọn lọc và nội tâm hoá.

– Thiên Chúa mời gọi để nên người tự do, trưởng thành.

– Thiên Chúa là Đấng chỉ đường, giá trị duy nhất và tuyệt đối.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO

– Gợi ý tưởng sống bằ ng gương Chúa Kitô và  gương các anh hùng.

– Tiếp tục với lịch sử cứu độ, Thánh Kinh và đời sống Hội thánh.

– Khơi niềm hy vọng, trình bày những giá trị cao đẹp Kitô giáo.

– Hướng dẫn tự do, ý thức trách nhiệm phẩm giá con người.

– Hướng dẫn ơn gọi.

– Hướng dẫn thêm về hình ảnh Thiên Chúa.

– Giáo dục luân lý quân bình hơn, hiểu về tội, có trách nhiệm cá nhân trong chọn lựa, khiêm tốn cậy trông vào Chúa.

  1. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
  2. Phương pháp

– Linh hoạt kết hợp thực hành.

– Kể gương anh hùng.

– Cam kết dấn thân theo Chúa.

  1. Sinh hoạt

– Hội thảo, tham quan, thăm viếng.

– Mời người có uy tín và thành công đến chia sẻ kinh nghiệm.

– Tổ chức xem phim, nghe nhạc, làm panô có chủ đề.

– Tham gia sinh hoạt đoàn thể trong giáo xứ, tập lãnh trách nhiệm.

  1. Kỷ luật

– Cần giải thích cách hợp lý.

  1. Cách trình bày vấn đề

– Đi từ sự kiện tổng quát để đánh động tinh thần dấn thân, phục vụ

– Hướng dẫn: Lịch sử cứu độ – Giáo hội – Xã hội.

Bài 15. DẠY GIÁO LÝ CHO TUỔI THANH NIÊN

  1. ĐẶC TÍNH TÂM LÝ (17 – 20 TUỔI)
  2. Tư tưởng

– Tuổi hội nhập vào đời sống xã hội, văn hoá, nghề nghiệp, hôn nhân.

– Suy tư  khách quan, dễ hoài nghi, biết đặt vấn đề .

– Say mê lý tưởng, ý thức giá trị tinh thần, sáng suốt, nghị lực.

– Biết chọn những giải trí lành mạnh.

– Cần tiếp tục học hỏi.

  1. Tình cảm

– Dễ hăng hái, nhưng cần sáng suốt hơn.

– Dễ khủng hoảng, dễ quạu.

– Bị giằng co bản thân, gia đình, xã hội trong lực chọn.

– Dễ thông cảm và muốn được thông cảm.

  1. Nhân cách

– Biểu lộ cái tôi.

– Bắt đầu trưởng thành và biết lãnh trách nhiệm.

– Can đảm chọn lựa lý tưởng sống.

  1. Xã hội tính

– Muốn hội nhập vào thế giới người lớn trong lời nói, hành xử và suy nghĩ.

– Phát triển tương quan với tha nhân, dễ cởi mở.

– Đi vào xã hội, chọn lựa những giá trị để hoà nhập với cuộc sống.

  1. Hành động

– Thực hiện những giá trị đã thủ đắc vào cuộc sống thực tế.

– Thử nghiệm để hội nhập, tuy vẫn còn những hoạt động chưa có suy nghĩ.

– Sẽ thành công, nếu biết dung hoà lý tưởng với thực tế trong hành động.

  1. Ý THỨC LUÂN LÝ VÀ ĐỨC TIN
  2. Luân lý

– Căn bản là hội nhập vào xã hội. Ý thức giá trị tinh thần.

– Điều thiện là giúp dễ hội nhập vào xã hội, phát triển cái tôi.

– Ưa thích cụ thể hóa lý tưởng, danh dự, tự do dấn thân.

– Hào hiệp và quảng đại.

  1. Đức tin

– Tiêu cực : bớt chủ quan, bớt nhiệt tình, nhưng cụ thể.

– Tích cực : đức tin cụ thể, mang chiều kích xã hội, là đức tin ở trong Giáo hội, muốn đóng vai trò trong đời sống của Giáo hội.

– Tìm Chúa Kitô ngay trong Giáo hội, qua những thực tại xã hội của Giáo hội, lãnh sứ mạng xây dựng Nước Chúa.

III. MỤC TIÊU HUẤN GIÁO

  1. Huấn giáo hội nhập : văn hoá, xã hội, Giáo hội.
  2. Giáo lý nhằm củng cố đức tin và lấy đức tin soi sáng để dấn thân.
  3. Chuẩn bị vào đời : trình bày giá trị và mục đích của tình yêu hôn nhân và đời sống gia đình.
  4. Ơn gọi làm người (trật tự sáng tạo). Ơn gọi làm Kitô hữu (trật tự cứu chuộc). Đó vừa là hồng ân vừa là trách nhiệm.
  5. Đức tin là dấn thân trong cả hai lãnh vực đạo và đời :

– Tương quan đạo – đời

– Tương quan đức tin – khoa học

– Tương quan cầu nguyện – hoạt động

  1. Giáo lý: cần trình bày những nhận thức đúng đắn về những hiện trạng tâm lý liên quan đến đức tin để suy nghĩ chung.
  2. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
  3. Phương pháp thảo luận, chia sẻ, họp nhóm: tập họp suy nghĩ chung.
  4. Tổng quan sinh hoạt

– Đặt vấn đề hội thảo, tổ chức quan sát, thăm viếng, việc bác ái.

– Tìm giá trị luân lý tốt để dấn thân.

– Dùng mẫu gương tốt. Dẫn vào sinh hoạt trách nhiệm giáo xứ, giáo hội.

  1. Kỷ luật : thông cảm, cần giải thích hợp lý.
  2. Cách trình bày vấn đề : những vấn đề thời đại gây thắc mắc cho đức tin, sống đức tin.

PHẦN IV. PHỤ TRƯƠNG

BÀI 16. NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH

KHI DẠY GIÁO LÝ

Năm học giáo lý sắp bắt đầu. Anh chị em giáo lý viên đang hăng hái chuẩn bị cho năm học mới một cách rộn ràng và hăng say. Chắc chắn các anh chị hiểu được mình cần phải làm gì cho lớp giáo lý sinh động và hiệu quả hơn. Ở đây, chúng ta cùng chia sẻ một số điều cần tránh trong lớp giáo lý (mà thực tế chúng ta thỉnh thoảng hay vướng phải).

  1. Đừng dạy thần học.

Cha Giuse Lê Quang Uy DCCT viết: “Thần học là một khoa học chuyên biệt, với nhiều trường phái và quan điểm khảo cứu về Thiên Chúa ( Théologie ), nó cung cấp rất nhiều kiến thức, lý luận, nhận định có hệ thống chặt chẽ về Thiên Chúa, tuy đôi khi vẫn còn có thể gây ra nhiều tranh cãi đưa tới nhiều canh tân đổi mới.

Trong khi đó, việc dạy Giáo Lý, dẫu có vận dụng đến một số điểm thần học căn bản, lại muốn đưa các em đến Lòng Tin, Lòng Yêu Mến và Lòng Cậy Trông chân thành đối với Thiên Chúa, để rồi thể hiện cụ thể ra trong đời sống của mình, vượt qua mọi thứ kiến thức và lý luận của lý trí. Do vậy, học Giáo Lý dứt khoát không phải là để nghe những bài thuyết trình hùng hồn hấp dẫn về Thiên Chúa”. (Nối Lửa Cho Đời 3)

Như vậy, giáo lý viên đừng nói cho các em tất cả những gì mình đọc và học trong sách thần học, mà hãy nói cho các em về Thiên Chúa bằng ngôn ngữ đơn giản, bình dân và phù hợp với các em. Ví dụ: Khi dạy về Đức Chúa Cha, giáo lý viên đừng mất giờ chứng minh mầu nhiệm Thiên Chúa Cha bằng kiến thức thần học, mà hãy nói làm sao cho các em cảm được tình yêu của Chúa Cha dành cho các em qua công cuộc tạo thành, cho các em cảm được rằng từng bông hoa, từng ngọn cỏ, từng làn gió là kết quả của tình yêu.

  1. Đừng đòi hỏi các em hoàn hảo.

Giáo lý viên thường muốn cho các em hoàn hảo và nghĩ là các em hoàn hảo. Do đó chúng ta không chấp nhận các em ồn ào, nói dối, quay bài hay đánh nhau. Nhưng chúng ta phải chú ý rằng khi Đức Giêsu đi rao giảng, thì ít ai trong xã hội Do thái hoàn hảo, kể cả các Tông đồ. Giáo lý viên chúng ta cũng còn chưa hoàn hảo kia mà ! Do đó, hãy chú ý uốn nắn, dạy cho các em bỏ tính xấu, tập nhân đức… nhưng đừng quá khắt khe cầu toàn. Dù sao thì các em cũng bị ảnh hưởng nhiều từ trường phổ thông và xã hội trần thế, nhất là một xã hội nơi người ta từ chối Thiên Chúa và chấp nhận cái giả trá để tồn tại. Thái độ bao dung, thông cảm (nhưng nghiêm khắc) sẽ giúp hoán cải các em.

  1. Đừng chỉ trích các em trước mặt mọi người.

Trong cuốn Đắc Nhân Tâm, Dale Carnegie viết đại ý là nên tránh chỉ trích. Nếu có phê bình thì nên giữ thể diện cho người khác và biết khen cái tốt của họ trước. Có những lúc theo tính con người, giáo lý viên thấy bực bội khi các em không học bài, quậy phá và hỗn hào. Hơn nữa, có em chẳng chịu sửa lỗi dù đã được chỉ bảo nhiều lần. Khi đó, việc chỉ trích, la mắng các em trước lớp có thể xảy ra dễ dàng. Nhưng nếu chúng ta làm như thế, chúng ta đi ngược lại với đường lối rao giảng của Đức Giêsu. Người không la mắng trẻ em bao giờ. Người chỉ quở trách người lớn khi lỗi của họ nghiêm trọng, gây gương xấu lớn lao và không phù hợp với chương trình Cứu độ.

  1. Đừng tiếc lời khen.

Trong thuật xử thế, khen tặng là cách làm vui lòng người, miễn là khen thành thật. Trong sư phạm, khen là cách khích lệ và làm các em có thêm hứng thú để. Đừng tiếc lời khen nhưng cũng đừng khen không đúng chỗ. Có giáo lý viên thấy các em làm gì cũng nói « tốt », « hay quá » khiến lời khen không còn ý nghĩa. Nhưng ngược lại, nhiều giáo lý viên rất tiết kiệm lời khen. Các em thuộc bài, ngoan ngoãn hay có những hành động tốt, ý tưởng hay. Đáng khen lắm chứ. Nếu chúng ta coi việc tốt của các em là đương nhiên, thì cũng có lý một phần. Nhưng mặt khác, tuổi các em rất cần những khích lệ, nâng đỡ và thông cảm. Người lớn còn cần lời khen kia mà. Chúa Giêsu vẫn khen các môn đệ và những người nghe Chúa, vì Người hiểu tâm lý con người.

  1. Đừng cau có, la mắng, đe doạ liên tục.

Cha Lê văn Quảng, một nhà tâm lý viết: « Chúng ta cần phải cắt nghĩa Kinh Thánh hay trình bày giáo lý cho con trẻ một cách thích hợp. Sự giải thích phải phù hợp với tuổi tác, kiến thức, văn hóa, và hợp với văn minh thời đại để giúp con trẻ thu thập vốn liếng cần thiết cho đời sống tâm linh mà không làm khủng hoảng chúng trong vấn đề tâm lý. Sự giáo huấn của tôn giáo có thể được dùng để giúp cho con trẻ biết khám phá ra rằng một số loại hành động chắc chắn nào đó đã được tìm thấy là sai trái vì chúng đã làm hư hại sự liên hệ tốt đẹp và hạnh phúc giữa con người ».

  1. Đừng kể chuyện tầm phào hay đùa giỡn thái quá.

Ở giáo xứ nọ khu ông Tạ, Sàigòn, một giáo lý viên hỏi các em: « Có em nào chà đồ nhôm chưa ? » Các em ngơ ngác nhìn nhau. Anh cười hì hì và nói: « Chà đồ nhôm là chôm đồ nhà ». Việc đùa giỡn kiểu đó có thể làm các em cười, nhưng cũng chưa lấy gì làm duyên dáng hay giúp gì cho bầu khí giáo lý. Những mẩu chuyện vui, hài hước giúp các em thoải mái học bài và nhớ bài học, nhưng những chuyện tầm phào làm các em chán hoặc có tác dụng ngược. Hãy tránh những lối chọc cười dung tục, chế nhạo hay làm các em thấy bị thương tổn. Ví dụ có giáo lý viên cứ hay đem em bé da đen sậm ra chọc cười!

  1. Đừng làm gương xấu mà hãy nêu gương sống đạo.

Thánh Phaolô nói: « Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kytô ». Chúng ta không dám nói như thế, nhưng phải sống điều chúng ta dạy. Một anh trưởng phòng nọ hay chia chác tiền ăn bớt công quĩ, khi dạy giáo lý đến bài Công Bằng thì anh cứng họng không nói được, phải nhờ một chị khác giảng giùm. Sau này anh sửa đổi lối làm việc, đi tu làm linh mục, và cha thường kể chuyện ấy để cho thấy rằng phải sống điều mình dạy. Một cha DCCT giảng về lòng bác ái, sau lễ có người đến nói: « Cha nói hay quá, vậy cha có thể thực hành không ? Cho con xin ba trăm ngàn ». Ngài nghèo nhưng sẵn đang có số tiền có người mới đưa, ngài cho anh ta ngay. Sống lời giảng là vậy đó. Khi một tiến chức được phong chức linh mục, Đức Giám Mục trao Kinh Thánh cho thầy và nói: « Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và sống điều con dạy ». Dạy giáo lý hoàn toàn khác với các môn học khác ở chỗ đó.

  1. Đừng nóng nảy đánh phạt các em.

Chúng ta đã nghe chuyện một cậu bé giúp lễ bị cha xứ tát và đã bỏ chạy khỏi nhà thờ và xa Giáo Hội mãi mãi, đó là Tito, nhà độc tài Nam tư. Đánh phạt nóng nảy có nhiều tai hại:

– Làm các em chán ghét giáo lý.

– Các em không học bài được và không nhớ bài học.

– Tạo tâm lý bất an cho các em và hình thành nhân cách sai lạc.

– Các em có cái nhìn sai về Giáo Hội và giáo lý.

Có anh chị lý luận: « Đánh các em mới nhớ ! Phụ huynh cũng đồng ý cho tôi đánh các em mà ». Lý luận này nguy hiểm ở chỗ là dùng cái không kiểm chứng được để biện minh cho hành động sai lạc rõ ràng. Chúa Giêsu bảo: « Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng xua đuổi chúng ». May mà các Tông đồ chưa đánh em nào !

  1. Đừng chỉ trích Giáo Hội là Mẹ chúng ta.

Giáo Hội là Nhiệm Thể và là Hiền Thê của Đức Kytô, Đấng chúng ta yêu mến và rao giảng. Giáo Hội có những con người và những điều chưa xứng hợp với phẩm giá làm Nhiệm Thể thánh thiện, nhưng bản chất Giáo Hội là thánh. Do đó việc phê bình chỉ trích Giáo Hội trong lớp giáo lý được hiểu là việc chống lại lời rao giảng. Chúng ta không buộc phải giấu những điều chưa đúng của con cái Chúa trong một số trường hợp, nhưng trong lớp giáo phải tránh phê bình chỉ trích, làm gương xấu cho các em.

Bài 17: CÁCH GIỮ TRẬT TỰ LỚP HỌC.

  1. Làm cho các em chú ý :

Trước khi bạn bắt đầu bài học phải chắc chắn rằng các em trong lớp chú ý nghe bạn giảng dạy. Đừng cố giảng dạy khi các em đang ồn ào và không chú ý.

Các glv ít kinh nghiệm đôi khi nghĩ rằng cứ bắt đầu bài học thì lớp sẽ yên. Đôi khi cách này có kết quả, nhưng làm như thế các em nghĩ rằng các bạn chấp nhận việc các em không để tâm, và cho phép các em nói chuyện khi các bạn giảng bài.
Phương pháp chú ý có nghĩa là bạn đòi các em phải chú ý trước khi bắt đầu, nghĩa là bạn sẽ đợi và không bắt đầu cho đến khi mọi người ngồi yên. Các glv có kinh nghiệm biết rằng đứng im không nói gì cả là điều rất hiệu quả. Họ sẽ đợi sau khi cả lớp im lặng từ 3 đến 5 giây rồi mới nói, và nói bằng giọng vừa đủ nghe.

Một glv nói giọng nhẹ nhàng thường cũng làm cho lớp học im lặng hơn là một glv lớn giọng. Các em sẽ ngồi im để lắng nghe.

  1. Nói thẳng, nói cách trực tiếp

Kỹ thuật nói thẳng là bắt đầu mỗi lớp học bằng cách nói thẳng cho các em biết điều gì sẽ xảy ra. Glv cho các em biết là mình và các em sẽ làm gì trong giờ học này, và giới hạn thì giờ cho mỗi việc làm trong lớp.

Cách tốt nhất là dùng chung với cách thứ nhất ở trên bằng cách cho các em một ít phút vào cuối lớp để làm những gì các em thích. Glv có thể kết thúc việc liệt kê các việc làm trong lớp thế này: “Nếu các em làm theo anh/chị nói, anh/chị nghĩ rằng chúng ta sẽ có một ít giờ vào cuối lớp để các em chơi trò chơi, giải trí, nghe chuyện, nói chuyện…”

Làm như thế, glv biết rằng mình có đủ thì giờ để chờ các em im lặng mà vẫn đạt được mục tiêu của mình. Chẳng bao lâu, các em cũng nhận ra rằng glv càng đợi lâu để bắt đầu lớp học thì các em càng có ít thì giờ tự do ở cuối giờ học.

  1. Quan Sát

Điểm chính yếu của phương pháp này là đi vòng vòng. Đứng lên và đi vòng lớp học khi các em đang học hay làm bài để xem các làm làm ra sao.

Một glv giỏi sẽ rảo qua cả lớp học trong vòng hai phút sau khi các em bắt đầu làm bài, để kiểm soát xem các em có làm đúng trang và đề tên mình trên trang ấy không. Kiểm soát xem có em nào không hiểu đầu bài để có thể giải thích cho em rõ ràng hơn. Nhờ vậy những em lo ra hay chậm hiểu có thể bắt kịp và những em đang lo ra chú ý hơn. Tuy nhiên glv không cắt ngang lớp học để loan báo điều gì trừ khi thấy có một ít em có cùng một trở ngại. Khi ấy glv nên giải thích cách nhỏ nhẹ cho các em.

  1. Làm Gương

Các glv nào tử tế, đúng giờ, hăng say, tự chủ, kiên nhẫn, và có óc tổ chức làm gương tốt cho các em qua chính thái độ và hạnh kiểm của mình. Glv nào mà “lời nói không đi đôi với việc làm” sẽ làm cớ cho các em thành vô kỷ luật.

Nếu bạn muốn các em nói nhỏ nhẹ trong lớp của bạn thì bạn phải nói nhỏ nhẹ khi đi vòng quanh lớp giúp các em.

  1. Dùng Dấu Hiệu

Khi tôi còn nhỏ, các glv dạy tôi thường dùng thước kẻ gõ trên bàn khi muốn chúng tôi chú ý. Có nhiều dấu hiệu glv có thể dùng trong lớp, như dùng tay, tắt rồi bật điện, thay đổi diện mạo, nhìn thẳng vào em nào vô kỷ luật. Cần phải chọn dấu hiệu nào bạn muốn dùng trong lớp học cách kỹ lưỡng, và bỏ thì giờ ra giải thích cho các em biết bạn muốn các em làm gì khi bạn ra dấu hiệu ấy.

  1. Làm Chủ Môi Trường

Một lớp học phải được trang trí làm sao để các em hứng thú khi học. Một lớp Giáo Lý không phải là một lớp học thường mà phải là nơi để các em gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế lớp học Giáo Lý phải được trang hoàng với những dụng cụ thánh, phải có bầu không khí cầu nguyện, và mầu sắc phải thích hợp với Mùa Phụng Vụ. Cũng thế, một lớp Việt Ngữ phải có những hình ảnh, vật dụng và bầu khí Việt Nam.

Vì vậy các glv phải mang theo mình đồ nghề để tạo nên bầu không khí mới mẻ trong mỗi lớp học cho phù hợp với bài học mình dạy. Đôi khi glv nên đem theo những hình ảnh kỷ niệm của mình để chia sẻ với học sinh. Phải làm sao để các em cảm thầy gần gũi glv là một điều thích thú. Càng biết và mến yêu glv nhiều, các em càng muốn làm vui lòng glv bằng cách giữ kỷ luật, không phải vì sợ mà vì không muốn glv buồn.

  1. Can thiệp cách ôn tồn

Hầu hết các em bị gửi lên ban đại diện vì cãi nhau hoặc cứng đầu với glv. Tình trạng nầy xảy ra vì các glv nóng nảy hay không biết cách giải quyết vấn đề nên glv trở thành đối thủ với các em. Chúng ta sẽ tránh được nhiều trường hợp như thế nếu chúng ta bình tĩnh và ôn tồn giải quyết vấn đề với tư cách của một anh chị.

Một glv giỏi phải cố gắng làm sao để không biến một em thành trọng tâm để mọi người chú ý đến. Glv đi vòng lớp học, tiên liệu những gì có thể xảy ra trườc khi nó xảy ra. Đối xử với những em vô kỷ luật một cách tự nhiên, mà không làm các em khác bị lo ra.

Trong lúc giảng bài, glv hãy dùng phương pháp “nhắc tên”. Nếu thấy em nào nói chuyện hay nghịch, glv nhắc đến tên em đó trong bài giảng một cách thật tự nhiên. Thí dụ: “Hùng, em có thấy Chúa yêu em không?” Đang nói chuyện, tự nhiên Hùng nghe thấy glv nhắc đến tên mình, em rụt lại, mà cả lớp không để ý.

  1. Áp dụng kỷ luật cách cương quyết

Đây là cách kỷ luật độc đoán nhưng rất có hiệu quả vì các em rất sợ quyền bính. Glv làm chủ và không em nào có quyền làm trái luật hay làm phiền các em khác trong lớp học. Muốn thế thì phải đưa luật ra một cách rõ ràng và phải áp dụng cách tuyệt đối.

  1. Ra lệnh cách quả quyết: Anh muốn…

Đây là một phần của phương pháp số 8. Dùng để đương đầu với những em vô kỷ luật. Nói thẳng cho các em biết là các em phải làm gì một cách rõ ràng. Glv biết dùng phương pháp này phải làm cho em này chú ý đến điều tốt mình muốn em ấy làm, chứ không phải vào sự vô kỷ luật của em. Nói: “Anh muốn em là…”, “Thầy yêu cầu em…”

Glv có ít kinh nghiệm sẽ nói: “Anh muốn em không làm…” hay “Em không được làm…”. Nó như thế sẽ làm cho các em chối cãi và đâm ra tranh luận với học trò, vì chúng ta chú trọng đến hành động vô kỷ luật của các em…

  1. Cách nói ba bước, dùng ba bước để diễn tả điều bạn muốn nói với một em phạm kỷ luật:

– Nói lên việc làm của em đó: “Trong khi anh đang giảng thì em nói chuyện”

– Nói lên hậu quả cuả việc làm của em đó: “và như thế anh phải ngưng giảng…”

– Cho em này biết bạn cảm thấy ra sao: “Anh thấy buồn.”

Một glv nói với một em nghịch nhất lớp rằng: “Anh không biết anh đã làm gì mà em không kính trọng anh như các em khác trong lớp. Nếu anh đã nóng nảy hay làm gì cho em buồn, làm ơn cho anh biết. Anh có cảm giác là anh đã làm gì cho em bất mãn, nên em tỏ ra không kính trọng anh.” Và em ấy không còn nghịch trong lớp nữa.

  1. Kỷ luật cách tích cực

Dùng những điều luật diễn tả những hạnh kiểm tốt bạn muốn các em học tập, chứ đừng liệt kê những điều các em không được làm. Thay vì nói “không được chạy trong phòng” thì nói “đi cách trật tự trong phòng.” Thay vì nói “không được đánh nhau” thì nói “giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa.” Thay vì nói “đừng nhai kẹo cao su” thì nói “để kẹo cao su ở nhà.” Nói đến các điều luật như là những điều bạn mong muốn các em làm. Hãy cho các em biết rằng đây là những điều bạn mong các em giữ trong lớp học. Đừng tiếc lời khen. Khi thấy em nào có hạnh kiểm tốt, thì hãy nhìn nhận ngay. Không cần phải nói ra lời, chỉ cần mỉm cười hay cử chỉ là có thể khuyến khích các em.

[1] Ba nguyên tăc căn bản trong việc dạy giáo lý, vì giáo dục là nhằm đào tạo con người tự nhiên thành người.. Giáo lý là đào tạo con người thành con Chúa, là thăng tiến con người đến mức độ trưởng thành trong đức tin. Nên, để đạt được mục đích đó, cần phải theo những nguyên tắc sau:

  1. Nguyên tắc toàn diện.

– Toàn diện trong nội dung: đầy đủ 4 phần trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.

– Toàn diện con người:

+ Trí khôn: lãnh hội.

+ Tình cảm: rung động trong cầu nguyện

+ Ý chí: quyết tâm sống đời sống mới.

+ Toàn thân diễn tả như : lời nói, cử chỉ, điệu bộ, thái độ tâm linh.

– Toàn diện lãnh vực sống: gia đình, xứ đạo, học đường, khu xóm…

  1. Nguyên tắc thích ứng.

– Trình bày sứ điệp vừa tầm lãnh nhận của người nghe. Vì thế:

+ Thích ứng theo lứa tuổi.

+Thích ứng theo môi trường, văn hóa, hoàn cảnh sống.

+ Thích ứng theo nội dung và phương pháp.

  1. Nguyên tắc sống động.

Luôn phải làm cho giờ giáo lý, bài giáo lý được sống động nhờ những phương pháp như: đối thoại, hội thảo, sinh hoạt, …

[2]      CÁC GIAI ĐOẠN TIẾN TRIỂN TÂM LÝ :

a/ Từ mới sinh đến 3 tuổi.

Ban đầu chưa phân biệt được nội giới và ngoại giới. Nhưng dần dần mới phân biệt được mình khác ngoại giới, nhờ cảm giác.

Từ 18 – 20 tháng tuổi, bé bắt đầu bập bẹ ê, a.

Từ 20 tháng tuổi trở nên, có thể biết rõ ý niệm về sự vật bên ngoài. Biết thắc mắc về các sự vật, nhưng chỉ biết một cách lơ mơ.

b/ Từ 3 – 4 tuổi : cuộc khủng hoảng đầu tiên.

Nhận thức được nội giới, ý thức mình là một người, nên bướng bỉnh, không muốn mình lệ thuộc ai, muốn có đời sống riêng biệt.

c/ Từ 4 – 7 tuổi : lứa tuổi êm dịu.

Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu biết tưởng tượng về một thế giới, biết ý thức về tình cảm. Nên, các em thường có quan niệm tất cả mọi sự dưới khía cạnh thương – ghét; vui – buồn.

d/ Từ 8 – 9 tuổi : cuộc khủng hoảng thứ hai.

Đây là lứa tuổi không còn mơ mộng, vì các em đã biết nhìn ra ngoại giới rõ ràng hơn : biết lý luận, biết phải trái, không muốn nhận quyền bính của cha mẹ, biết  tìm bạn ngoài anh chị em trong gia đình, và đặc biệt là các em cũng đã biết diễn tả những suy nghĩ của mình.

e/ Từ 9 – 12 tuổi.

Ở lứa tuổi này, các em thích tìm hiểu ngoại vật, trí óc thực tế, thích lý luận chứ không còn mơ mộng. Các em thích phiêu lưu, thích hoạt động, và nhất là thích tỏ ra là anh hùng.

f/ Từ 13 – 14 tuổi : Một cuộc khủng hoảng trầm trọng.

Các em lại trở về nội giới. Bây giờ đã nhận sự tự do, tự chủ của mình, các em muốn tận hưởng nó. Tuổi dậy thì làm cho các em bắt đầu để ý đến người khác phái và nghĩ đến việc vui thú thể xác (tuy nhiên vẫn còn rất mơ hồ). Con gái muốn làm duyên để gây sự chú ý của con trai;  con trai tỏ ra mình anh hùng để chinh phục con gái. Và vì thân thể các em chưa được điều hòa, nên các em hay e thẹn và ngượng ngịu trong các tiếp xúc với các bạn khác giới. Vì vậy, cần phải giúp các em có được suy nghĩ và ý thức đúng đắn về vấn đề giới tính.

g/ Từ 14 – 16, Tuổi dậy thì.

Tuổi hướng nội. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thiếu nhi sang tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này, tính tình các em rất thất thường vì những thay đổi của cơ thể. Các em thường sống ngoài thực tại : mơ mộng và cũng mơ ước nhiều sự, nhưng chẳng thực hiện và cũng chẳng giữ được điều gì, vì thế mà các em muốn sống tự lập và muốn được tự do.

Bởi vậy, cũng như đối với các em ở tuổi 13- 14, hãy giúp cho các em ở lứa tuổi này (14 – 16), có những suy nghĩ và ý thức đúng đắn về vấn đề giới tính và tình yêu khác phái. Hơn nữa, cũng cần phải giúp các em biết sống đúng với thực tại: biết chấp nhận mình với những giới hạn, chứ đừng sống mơ hồ ngoài thực tại. Đặc biệt, hãy giúp các em biết suy nghĩ đến người khác, sống vô vị lợi chứ đừng chỉ sống ích kỷ cho riêng mình..

h/ Từ 17 – 18, tuổi khủng hoảng thành nhân.

Đây là lứa tuổi ngang tàng, hoài nghi mọi sự. Ở lứa tuổi này, các bạn trẻ thường hay thích đặt vấn đề và tự giải quyết vấn đề đó. Vì thế, về mặt luân lý, họ thích tự lập : cái gì thích và tự cho là đúng thì theo, không cần biết thực tế là đúng hay sai, không muốn và không sợ một áp lực nào. Chính vì vậy mà ta có thể nói ở lứa tuổi này, các bạn trẻ có một đời sống luân lý bừa bãi, vô kỷ luật, nếu các bạn không được sự giáo dục kỹ lưỡng từ gia đình, nhất là về vấn đề giới tính và tình yêu khác phái.

i/ Từ 19 – 21, tuổi bước vào đời.

Các bạn trẻ trong lứa tuổi này đã biết sống thực tế hơn, biết lo cho tương lai như : lo có bằng cấp, chức vụ, có tiền, biết lo cho gia đình, người thân… Đồng thời cũng biết tận tụy, bỏ mình vì phận sự. Chính vì vậy, những người có trách nhiệm (cha mẹ, thầy cô…) phải giúp các bạn có được một định hướng đúng cho tương lai của các bạn

DẠY GIÁO LÝ THEO LỨA TUỔI.

  1. Tuổi Au nhi : Lớp khai tâm và rước lễ. (4 – 7 tuổi).

– Đặc tính tâm lý : Hướng nội, tư tưởng gắn liền với tình cảm, hay thắt mắc, sử dụng từ ngữ còn đơn sơ.

– Tình cảm : Lệ thuộc và phát triển từ nơi cha mẹ…

– Nhân cách : Bắt đầu phát triển, lấy người lớn làm mẫu mực.

* Phương pháp dạy giáo lý :

+ Phương pháp : qui nạp, trực giác, tiệm tiến, hoạt động.

+ Tổng quát sinh hoạt : Cần vẽ, hát, cử điệu, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi ; vận dụng trí nhớ ! Học thuộc lòng một số câu giáo lý.

+ Kỷ luật : Giáo lý viên cần phải là gương mẫu cho các em.

+ Cách trình bày vấn đề : Sử dụng từ và cách trình bày đơn giản, đi từ thực tế đời thường để dẫn tới chân lý tôn giáo.

  1. Tuổi thiếu nhi (Lớp thêm sức) từ 8 – 12 tuổi.

– Đặc tính tâm lý : Tuổi hướng ngoại, bắt đầu suy luận, biết đắc thủ những tập quán.

– Tình cảm : bộc trực, hồn nhiên, thích ganh đua, thích được khen.

– Nhân cách : Biết phân biệt phái tính, tập làm người lớn.

* Phương pháp dạy giáo lý :

+ Dùng các phương pháp căn bản : cụ thể, gần gũi với đời sống.

+ Tổng quát sinh hoạt : Cần vẽ, hát, đặt câu hỏi, đố vui…

+ Kỷ luật : Kỷ luật phải đi đôi với tình thương.

+ Trình bày vấn đề : Cần nói mạch lạc, đặt trong không gian và thời gian, vì là tuổi tri giác.

  1. Tuổi thiếu niên (Lớp bao đồng 13 – 16 tuổi).

– Đặc tính tâm lý : Hướng nội, sống mộng mơ…

– Tình cảm : Tuổi dậy thì, đa cảm, chú ý đến thể xác ; tuổi bất ổn, hay thay đổi tình cảm, vui buồn vu vơ.

– Nhân cách : Tuổi giao thời : ngang bướng, khó dạy. Thích ngưỡng một thần tượng. Vì vậy tập trung vào việc giáo dục nhân cách cho các em.

+ Phương pháp dạy giáo lý :

+ Phương pháp : Linh hoạt, thực hành.

+ Tổng quát sinh hoạt : Đặt vấn đề hội thảo, cần có những buổi đi thực tế.

+ Kỷ luật : Cần phải thích hợp trong từng tình huống, không cứng nhắc.

+ Cách trình bày vấn đề : Đi từ sự kiện bao quát hơn để đánh động tinh thần quảng đại, dấn thân, phục vụ.

  1. Tuổi thanh niên (Lớp vào đời 17 – 20).

– Đặc tính tâm lý : Tư tưởng hội nhập vào đời sống xã hội, biết suy tư, say mê lý tưởng, biết phân biệt và chọn lựa đúng sai.

– Tình cảm : Dễ khủng hoảng, bị giằng co giữa bản thân với gia đình, xã hội, dễ thông cảm và muốn được thông cảm.

– Nhân cách : Bắt đầu trưởng thành, dám lãnh trách nhiệm, can đảm chọn lựa lý tưởng sống.

* Phương pháp dạy giáo lý :

+ Phương pháp : Thảo luận, hội thảo, họp nhóm để tập suy nghĩ chung.

+ Tổng quát sinh hoạt : Đặt vấn đề hội thảo, tổ chức quan sát, thăm viếng, tìm giá trị luân lý để dấn thân, dùng mẫu gương tốt.

+ Kỷ luật : Thông cảm, cần giải thích hợp lý.

+ Cách trình bày vấn đề : Đưa ra những vấn đề thời đại, gây thắc mắc cho đức tin và sống đức tin.